Nhà ở xã hội là gì? Các công bố khoa học về Nhà ở xã hội
Nhà ở xã hội là các loại hình nhà ở được xây dựng và cung cấp cho những người thuộc các tầng lớp có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã hội. Chính phủ hoặc các ...
Nhà ở xã hội là các loại hình nhà ở được xây dựng và cung cấp cho những người thuộc các tầng lớp có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã hội. Chính phủ hoặc các tổ chức xã hội thường đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư và quản lý nhà ở xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở của những người thuộc tầng lớp này. Nhà ở xã hội thường được xây dựng với giá thành giảm, thuê, hoặc cung cấp theo các chính sách hỗ trợ bởi chính phủ.
Nhà ở xã hội là một hình thức nhà ở được công nhận và hỗ trợ bởi chính phủ hoặc các tổ chức xã hội trong việc cung cấp nhà ở cho những người thuộc các tầng lớp kinh tế khó khăn trong xã hội. Mục đích của nhà ở xã hội là giúp đỡ các gia đình có thu nhập thấp hoặc không đủ điều kiện tài chính để mua nhà hoặc thuê nhà với giá cao.
Nhà ở xã hội được xây dựng và quản lý bởi các nhà phát triển nhà ở xã hội hoặc các tổ chức chính phủ như Ủy ban Nhà ở xã hội, Cục nhà ở xã hội, Sở xây dựng... Chính phủ và các tổ chức này có thể đầu tư hoặc huy động nguồn vốn từ ngân sách quốc gia, vốn vay ngân hàng hoặc từ các nguồn kinh phí xã hội khác để xây dựng, mua hoặc cung cấp các căn nhà xã hội cho các hộ gia đình có nhu cầu.
Các nhà ở xã hội thường có giá thành giảm so với giá trị thực của căn nhà để đáp ứng khả năng tài chính của người dân. Ngoài ra, một số khu nhà ở xã hội có thể cho thuê với mức phí thấp hơn so với các căn hộ thị trường. Chính sách chi trả giá trị nhà ở xã hội thường được thiết kế để giúp người dân có khả năng sở hữu nhà ở trong thời gian dài và không gặp khó khăn tài chính lớn.
Đối tượng người dùng của nhà ở xã hội có thể bao gồm các hộ gia đình có thu nhập thấp, người lao động không có nhà ở ổn định, người già, người tàn tật, người di cư, người nghèo, người hội đồng cấp phong, người thuộc diện hộ tịch xã hội, người có gia đình chết, hoàn cảnh đặc biệt khác.
Tùy thuộc vào từng quốc gia và vùng lãnh thổ, nhà ở xã hội có thể có nhiều hình thức khác nhau như căn hộ chung cư, nhà liền kề, nhà ở cho thuê, chung cư tái định cư hay nhà phố xã hội. Các căn nhà này thường được xây dựng với chất lượng tốt, tiện nghi cơ bản như nước sạch, điện, vệ sinh và các tiện ích cộng đồng khác.
Nhà ở xã hội có vai trò quan trọng trong việc cải thiện điều kiện sống và giảm đói giảm nghèo cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. Chúng cung cấp cho người dân những điều kiện sống tốt hơn, ổn định và an toàn, đồng thời giúp người dân tiết kiệm chi phí nhà ở và tập trung vào phát triển kinh tế cá nhân và gia đình.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhà ở xã hội":
Bài tổng quan này đề cập đến những phát triển gần đây trong tài liệu về ảnh hưởng xã hội, tập trung chủ yếu vào nghiên cứu về tuân thủ và đồng thuận được công bố từ năm 1997 đến 2002. Các nguyên tắc và quá trình nằm dưới sự nhạy cảm của đối tượng với ảnh hưởng bên ngoài được xem xét với ba mục tiêu cơ bản cho chức năng con người. Cụ thể, các đối tượng được thúc đẩy để hình thành những nhận thức chính xác về thực tại và phản ứng tương ứng, phát triển và duy trì các mối quan hệ xã hội có ý nghĩa, và giữ gìn một khái niệm bản thân tích cực. Nhất quán với xu hướng hiện tại trong nghiên cứu về tuân thủ và đồng thuận, bài tổng quan này nhấn mạnh những cách mà các mục tiêu này tương tác với các lực bên ngoài để tạo ra các quá trình ảnh hưởng xã hội tinh vi, gián tiếp, và không nằm trong ý thức.
Tổng cộng có 3786 người tham gia trong 14 mẫu độc lập, với quy mô từ 45 đến 549 trong các công ty và cơ quan ở Mỹ và nước ngoài, đã hoàn thành phiên bản mới nhất của Bảng câu hỏi Lãnh đạo Đa nhân tố (MLQ Form 5X), mỗi người mô tả người lãnh đạo tương ứng của mình. Dựa trên tài liệu trước đó, chín mô hình đại diện cho các cấu trúc yếu tố khác nhau đã được so sánh để xác định mô hình phù hợp nhất cho khảo sát MLQ. Các mô hình đã được kiểm tra trong một bộ mẫu ban đầu gồm chín mẫu, sau đó là một bộ tái lập thứ hai gồm năm mẫu. Kết quả chỉ ra rằng cấu trúc yếu tố cho khảo sát MLQ được đại diện tốt nhất bởi sáu yếu tố thứ cấp và ba yếu tố bậc cao có liên quan.
Internet là bước tiến công nghệ mới nhất trong chuỗi các đột phá công nghệ trong giao tiếp giữa con người, tiếp nối theo điện báo, điện thoại, radio và truyền hình. Internet kết hợp các đặc điểm sáng tạo của những người tiền nhiệm, chẳng hạn như khả năng kết nối khoảng cách lớn và tiếp cận đông đảo công chúng. Tuy nhiên, Internet cũng có những tính năng mới, quan trọng nhất là sự ẩn danh tương đối mà nó cung cấp cho người dùng và khả năng tạo ra các không gian nhóm nơi họ có thể gặp gỡ những người có sở thích và giá trị tương đồng với mình. Chúng tôi đặt Internet trong bối cảnh lịch sử của nó, và sau đó xem xét những ảnh hưởng của việc sử dụng Internet đến sức khỏe tâm lý của người dùng, sự hình thành và duy trì các mối quan hệ cá nhân, thành viên trong các nhóm và danh tính xã hội, môi trường làm việc và sự tham gia cộng đồng. Bằng chứng cho thấy rằng mặc dù những ảnh hưởng này chủ yếu phụ thuộc vào các mục tiêu cụ thể mà người dùng mang lại cho sự tương tác—chẳng hạn như tự thể hiện, liên kết hay cạnh tranh—chúng cũng tương tác theo những cách quan trọng với các đặc điểm độc đáo của tình huống giao tiếp qua Internet.
Con người thường chia sẻ ý kiến và thông tin với các mối quan hệ xã hội của họ, và lời truyền miệng có tác động quan trọng đến hành vi tiêu dùng. Nhưng điều gì thúc đẩy giao tiếp giữa các cá nhân và tại sao mọi người lại nói về những điều nhất định mà không phải những điều khác? Bài viết này lập luận rằng lời truyền miệng là động lực và phục vụ năm chức năng chính (tức là, quản lý ấn tượng, điều tiết cảm xúc, thu thập thông tin, gắn kết xã hội, và thuyết phục). Quan trọng hơn, tôi cho rằng những động lực này chủ yếu phục vụ cho bản thân (thay vì người khác) và thúc đẩy nội dung mà mọi người nói đến ngay cả khi họ không nhận thức được điều đó. Hơn nữa, những động lực này đưa ra các dự đoán về loại tin tức và thông tin mà mọi người có khả năng thảo luận cao nhất. Bài viết này xem xét năm chức năng được đề xuất cũng như cách các yếu tố bối cảnh (tức là, khán giả và kênh giao tiếp) có thể điều chỉnh chức năng nào đóng vai trò lớn hơn. Tổng thể, bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố tâm lý hình thành lời truyền miệng và phác thảo những câu hỏi bổ sung cần nghiên cứu thêm.
Có hai hệ thống tín hiệu cảm nhận số lượng acyl-homoserine lactone có mối liên quan trong
Sự nhận thức của cá nhân về các vấn đề đạo đức là bước đầu tiên quan trọng trong quá trình ra quyết định đạo đức. Dựa vào nghiên cứu trong lĩnh vực nhận thức xã hội và đạo đức kinh doanh, chúng tôi đã giả thuyết rằng sự nhận thức đạo đức bị ảnh hưởng bởi các yếu tố liên quan đến vấn đề (mức độ hậu quả của vấn đề đạo đức và cách trình bày vấn đề theo cách đạo đức) và các yếu tố liên quan đến bối cảnh xã hội (bối cảnh cạnh tranh và sự đồng thuận xã hội mà trong đó vấn đề bị coi là có vấn đề về đạo đức). Các giả thuyết đã được kiểm tra trong một thí nghiệm thực địa với sự tham gia của 291 chuyên gia về tình báo cạnh tranh. Kết quả chủ yếu đã hỗ trợ các giả thuyết. Phân tích định tính đã cung cấp thêm cái nhìn về nội dung nhận thức đạo đức của những người tham gia.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10