Nhà ở xã hội là gì? Các công bố khoa học về Nhà ở xã hội
Nhà ở xã hội là các loại hình nhà ở được xây dựng và cung cấp cho những người thuộc các tầng lớp có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã hội. Chính phủ hoặc các ...
Nhà ở xã hội là các loại hình nhà ở được xây dựng và cung cấp cho những người thuộc các tầng lớp có điều kiện kinh tế khó khăn trong xã hội. Chính phủ hoặc các tổ chức xã hội thường đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư và quản lý nhà ở xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu nhà ở của những người thuộc tầng lớp này. Nhà ở xã hội thường được xây dựng với giá thành giảm, thuê, hoặc cung cấp theo các chính sách hỗ trợ bởi chính phủ.
Nhà ở xã hội là một hình thức nhà ở được công nhận và hỗ trợ bởi chính phủ hoặc các tổ chức xã hội trong việc cung cấp nhà ở cho những người thuộc các tầng lớp kinh tế khó khăn trong xã hội. Mục đích của nhà ở xã hội là giúp đỡ các gia đình có thu nhập thấp hoặc không đủ điều kiện tài chính để mua nhà hoặc thuê nhà với giá cao.
Nhà ở xã hội được xây dựng và quản lý bởi các nhà phát triển nhà ở xã hội hoặc các tổ chức chính phủ như Ủy ban Nhà ở xã hội, Cục nhà ở xã hội, Sở xây dựng... Chính phủ và các tổ chức này có thể đầu tư hoặc huy động nguồn vốn từ ngân sách quốc gia, vốn vay ngân hàng hoặc từ các nguồn kinh phí xã hội khác để xây dựng, mua hoặc cung cấp các căn nhà xã hội cho các hộ gia đình có nhu cầu.
Các nhà ở xã hội thường có giá thành giảm so với giá trị thực của căn nhà để đáp ứng khả năng tài chính của người dân. Ngoài ra, một số khu nhà ở xã hội có thể cho thuê với mức phí thấp hơn so với các căn hộ thị trường. Chính sách chi trả giá trị nhà ở xã hội thường được thiết kế để giúp người dân có khả năng sở hữu nhà ở trong thời gian dài và không gặp khó khăn tài chính lớn.
Đối tượng người dùng của nhà ở xã hội có thể bao gồm các hộ gia đình có thu nhập thấp, người lao động không có nhà ở ổn định, người già, người tàn tật, người di cư, người nghèo, người hội đồng cấp phong, người thuộc diện hộ tịch xã hội, người có gia đình chết, hoàn cảnh đặc biệt khác.
Tùy thuộc vào từng quốc gia và vùng lãnh thổ, nhà ở xã hội có thể có nhiều hình thức khác nhau như căn hộ chung cư, nhà liền kề, nhà ở cho thuê, chung cư tái định cư hay nhà phố xã hội. Các căn nhà này thường được xây dựng với chất lượng tốt, tiện nghi cơ bản như nước sạch, điện, vệ sinh và các tiện ích cộng đồng khác.
Nhà ở xã hội có vai trò quan trọng trong việc cải thiện điều kiện sống và giảm đói giảm nghèo cho các hộ gia đình có thu nhập thấp. Chúng cung cấp cho người dân những điều kiện sống tốt hơn, ổn định và an toàn, đồng thời giúp người dân tiết kiệm chi phí nhà ở và tập trung vào phát triển kinh tế cá nhân và gia đình.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "nhà ở xã hội":
Nghiên cứu hiện tại phát triển và kiểm tra một mô hình lý thuyết mở rộng của Mô Hình Chấp Nhận Công Nghệ (TAM) nhằm giải thích sự hữu ích cảm nhận và ý định sử dụng dựa trên ảnh hưởng xã hội và các quá trình nhận thức công cụ. Mô hình mở rộng, gọi là TAM2, đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng dữ liệu theo chiều dọc thu thập được từ bốn hệ thống khác nhau tại bốn tổ chức (N = 156), trong đó hai hệ thống có tính chất sử dụng tự nguyện và hai hệ thống bắt buộc. Các cấu trúc mô hình được đo lường tại ba thời điểm tại mỗi tổ chức: trước khi triển khai, một tháng sau khi triển khai, và ba tháng sau khi triển khai. Mô hình mở rộng nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ cho cả bốn tổ chức ở cả ba thời điểm đo lường, chiếm tới 40%–60% sự biến thiên trong cảm nhận về tính hữu ích và 34%–52% sự biến thiên trong ý định sử dụng. Cả hai quá trình ảnh hưởng xã hội (chuẩn mực chủ quan, tính tự nguyện, và hình ảnh) và các quá trình nhận thức công cụ (liên quan đến công việc, chất lượng kết quả, khả năng chứng minh kết quả, và cảm nhận về sự dễ sử dụng) đều có ảnh hưởng đáng kể đến sự chấp nhận của người sử dụng. Những phát hiện này nâng cao lý thuyết và đóng góp vào cơ sở cho nghiên cứu trong tương lai nhằm cải thiện việc hiểu biết về hành vi chấp nhận của người dùng.
Bài tổng quan này đề cập đến những phát triển gần đây trong tài liệu về ảnh hưởng xã hội, tập trung chủ yếu vào nghiên cứu về tuân thủ và đồng thuận được công bố từ năm 1997 đến 2002. Các nguyên tắc và quá trình nằm dưới sự nhạy cảm của đối tượng với ảnh hưởng bên ngoài được xem xét với ba mục tiêu cơ bản cho chức năng con người. Cụ thể, các đối tượng được thúc đẩy để hình thành những nhận thức chính xác về thực tại và phản ứng tương ứng, phát triển và duy trì các mối quan hệ xã hội có ý nghĩa, và giữ gìn một khái niệm bản thân tích cực. Nhất quán với xu hướng hiện tại trong nghiên cứu về tuân thủ và đồng thuận, bài tổng quan này nhấn mạnh những cách mà các mục tiêu này tương tác với các lực bên ngoài để tạo ra các quá trình ảnh hưởng xã hội tinh vi, gián tiếp, và không nằm trong ý thức.
Tổng cộng có 3786 người tham gia trong 14 mẫu độc lập, với quy mô từ 45 đến 549 trong các công ty và cơ quan ở Mỹ và nước ngoài, đã hoàn thành phiên bản mới nhất của Bảng câu hỏi Lãnh đạo Đa nhân tố (MLQ Form 5X), mỗi người mô tả người lãnh đạo tương ứng của mình. Dựa trên tài liệu trước đó, chín mô hình đại diện cho các cấu trúc yếu tố khác nhau đã được so sánh để xác định mô hình phù hợp nhất cho khảo sát MLQ. Các mô hình đã được kiểm tra trong một bộ mẫu ban đầu gồm chín mẫu, sau đó là một bộ tái lập thứ hai gồm năm mẫu. Kết quả chỉ ra rằng cấu trúc yếu tố cho khảo sát MLQ được đại diện tốt nhất bởi sáu yếu tố thứ cấp và ba yếu tố bậc cao có liên quan.
Internet là bước tiến công nghệ mới nhất trong chuỗi các đột phá công nghệ trong giao tiếp giữa con người, tiếp nối theo điện báo, điện thoại, radio và truyền hình. Internet kết hợp các đặc điểm sáng tạo của những người tiền nhiệm, chẳng hạn như khả năng kết nối khoảng cách lớn và tiếp cận đông đảo công chúng. Tuy nhiên, Internet cũng có những tính năng mới, quan trọng nhất là sự ẩn danh tương đối mà nó cung cấp cho người dùng và khả năng tạo ra các không gian nhóm nơi họ có thể gặp gỡ những người có sở thích và giá trị tương đồng với mình. Chúng tôi đặt Internet trong bối cảnh lịch sử của nó, và sau đó xem xét những ảnh hưởng của việc sử dụng Internet đến sức khỏe tâm lý của người dùng, sự hình thành và duy trì các mối quan hệ cá nhân, thành viên trong các nhóm và danh tính xã hội, môi trường làm việc và sự tham gia cộng đồng. Bằng chứng cho thấy rằng mặc dù những ảnh hưởng này chủ yếu phụ thuộc vào các mục tiêu cụ thể mà người dùng mang lại cho sự tương tác—chẳng hạn như tự thể hiện, liên kết hay cạnh tranh—chúng cũng tương tác theo những cách quan trọng với các đặc điểm độc đáo của tình huống giao tiếp qua Internet.
Bài báo này tổng hợp hơn 200 bài báo và sách chuyên khảo về lao động tại hộ gia đình được xuất bản từ năm 1989 đến 1999. Là một lĩnh vực nghiên cứu đang trưởng thành, tập hợp nghiên cứu này quan tâm đến việc hiểu và ghi lại cách thức công việc nhà được gắn liền trong những quá trình xã hội phức tạp và biến đổi liên quan đến phúc lợi của gia đình, việc cấu trúc giới tính, và sự tái sản xuất xã hội. Những đóng góp lý thuyết, phương pháp và thực nghiệm quan trọng cho nghiên cứu lao động tại hộ gia đình được tóm tắt, và các gợi ý cho nghiên cứu tiếp theo được đưa ra. Tóm lại, phụ nữ đã giảm bớt và nam giới đã tăng nhẹ mức đóng góp theo giờ cho công việc nhà. Mặc dù mức đóng góp tương đối của nam giới đã tăng, nhưng phụ nữ vẫn làm ít nhất gấp đôi công việc nhà theo thói quen so với nam giới. Các yếu tố tiên đoán chia sẻ nhất quán bao gồm việc làm của cả phụ nữ và nam giới, thu nhập, tư tưởng giới tính, và các vấn đề trong chu kỳ sống. Sự phân chia công việc nhà cân bằng hơn được liên kết với việc phụ nữ cảm nhận sự công bằng, trải qua ít nỗi trầm cảm hơn, và có mức độ hài lòng trong hôn nhân cao hơn.
Bài báo này phát triển một lý thuyết về bất bình đẳng và hợp đồng xã hội nhằm giải thích cách mà các quốc gia có “nền tảng” kinh tế và chính trị tương tự có thể duy trì các hệ thống bảo hiểm xã hội, phân phối tài chính và tài chính giáo dục khác nhau như của Hoa Kỳ và Tây Âu. Trong bối cảnh thị trường tín dụng và bảo hiểm không hoàn hảo, một số chính sách phân phối lại có thể cải thiện phúc lợi trước thực tế, và điều này ngụ ý rằng sự ủng hộ chính trị của chúng có xu hướng giảm khi mức độ bất bình đẳng gia tăng. Ngược lại, với các hạn chế tín dụng, việc giảm thiểu phân phối lại dẫn đến bất bình đẳng kéo dài hơn; do đó có khả năng tồn tại nhiều trạng thái ổn định, với bất bình đẳng cao và phân phối lại thấp tự củng cố lẫn nhau, hoặc ngược lại. (JEL D31, E62, P16, O41, I22)
Con người thường chia sẻ ý kiến và thông tin với các mối quan hệ xã hội của họ, và lời truyền miệng có tác động quan trọng đến hành vi tiêu dùng. Nhưng điều gì thúc đẩy giao tiếp giữa các cá nhân và tại sao mọi người lại nói về những điều nhất định mà không phải những điều khác? Bài viết này lập luận rằng lời truyền miệng là động lực và phục vụ năm chức năng chính (tức là, quản lý ấn tượng, điều tiết cảm xúc, thu thập thông tin, gắn kết xã hội, và thuyết phục). Quan trọng hơn, tôi cho rằng những động lực này chủ yếu phục vụ cho bản thân (thay vì người khác) và thúc đẩy nội dung mà mọi người nói đến ngay cả khi họ không nhận thức được điều đó. Hơn nữa, những động lực này đưa ra các dự đoán về loại tin tức và thông tin mà mọi người có khả năng thảo luận cao nhất. Bài viết này xem xét năm chức năng được đề xuất cũng như cách các yếu tố bối cảnh (tức là, khán giả và kênh giao tiếp) có thể điều chỉnh chức năng nào đóng vai trò lớn hơn. Tổng thể, bài viết cung cấp cái nhìn sâu sắc về các yếu tố tâm lý hình thành lời truyền miệng và phác thảo những câu hỏi bổ sung cần nghiên cứu thêm.
Có hai hệ thống tín hiệu cảm nhận số lượng acyl-homoserine lactone có mối liên quan trong
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10